Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
Ghi
Chủ đề:
50 năm – QH30T4Đ
Tác giả:
Lê Bình
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Biệt Động Quân là một trong
những binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Được thành lập
ngày 1 tháng 7 năm 1960. Biệt Động Quân thành lập nhưng đúng vào
giai đoạn sôi động của chiến trường cho nên binh chủng đã hiên
ngang và kiêu hùng sánh vai cùng các binh chủng bạn trên khắp
chiến trường, từ địa đầu giới tuyến đến Cà Mâu qua Hạ Lào và
Kampuchia. Ở đâu có giặc Cộng, ở đó có bóng dáng người chiến sĩ
Mũ Nâu và binh chủng BĐQ luôn luôn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu
Những Con Cọp Rừng của chiến trường.
Để tăng cường khả năng tác chiến của
Quân đội Việt Nam Cộng hòa trước chiến thuật du kích của Cộng sản
Bắc Việt kể từ sau “Đồng khởi” năm 1960, Tổng thống VNCH Ngô Đình
Diệm chỉ thị thành lập các đại đội Biệt Động Quân, tuyển chọn
binh sĩ của các sư đoàn bộ binh, binh chủng Dù, và Thủy quân lục
chiến, huấn luyện kỹ năng hành quân độc lập, tác chiến chống du
kích. Một số sĩ quan người Việt thuộc Liên đoàn quan sát số I
được chuyển sang làm thành phần nòng cốt của Biệt Động Quân.
Chiến thuật tác chiến ban đầu của các đại đội Biệt Động Quân là
trang bị vũ khí gọn nhẹ với quần áo bà ba đen, cơ động truy kích,
và tiêu diệt các đơn vị du kích Cộng sản hoạt động trên địa bàn.
Trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân đầu
tiên là trường Biệt Động Đội Đồng Đế (Nha Trang), về sau đổi
thành Trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân Nha Trang, chuyên huấn
luyện cho Sĩ quan và Hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn II. Cuối tháng 4
năm 1960, hai trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân mới được thành
lập, một tại Đà Nẵng để huấn luyện cho Sĩ quan và Hạ sĩ quan
thuộc Quân đoàn I, một tại Sông Mao huấn luyện cho Sĩ quan, Hạ sĩ
quan thuộc Quân đoàn III, và Quân đoàn IV. Ngoài ra, còn có 2
trung tâm huấn luyện khác là Trung Hòa và Thất Sơn, chuyên huấn
luyện tác chiến cấp đại đội. Khác với các toán biệt kích của Liên
đoàn quan sát số I do các cố vấn CIA trực tiếp quản lý, điều
hành, và huấn luyện, các toán Biệt Động Quân do các Sĩ quan và Hạ
sĩ quan người Việt huấn luyện với sự trợ giúp của các cố vấn quân
sự của Phái bộ Cố vấn Quân sự Mỹ (Military Assistance Advisory
Group – MAAG).
Ngày 1 tháng 7 năm 1960, lực lượng Biệt
Động Quân được chính thức thành lập, do Thiếu tá Lữ Đình Sơn làm
Chỉ huy trưởng. Quân phục chính thức của lực lượng Biệt Động Quân
cũng chuyển sang quân phục rằn ri đốm hoa với mũ béret nâu. Mặc
dù hình thành Bộ chỉ huy riêng, nhưng trên thực tế, các đại đội
Biệt Động Quân tác chiến theo sự chỉ huy của các Tư lệnh Sư đoàn
hoặc Tiểu khu trưởng tại địa bàn hoạt động. Bộ chỉ huy trung ương
chỉ có nhiệm vụ quản trị, điều hành, bổ sung quân số, huấn luyện,
trang bị, thanh tra, theo dõi, thống kê, báo cáo các hoạt động
của các đơn vị Biệt Động Quân trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
Biệt Động Quân được thành lập theo nhu
cầu chiến trường du kích chiến. Những đơn vị đầu tiên của binh
chủng mang tính chất “cơ động” (Truy kích và tiêu diệt) được gọi
là Biệt Động Đội và quân số chỉ đến cấp đại đội. Mỗi một Liên
đoàn BĐQ có 3 tiểu đoàn tác chiến, một đại đội trinh sát, đại đội
Hành Chánh và Công Vụ. Năm 1970, BĐQ nhận thêm một nhiệm vụ mới
là tiếp nhận Lực Lượng Đặc Biệt và Biên Phòng sáp nhập và được
cải biên thành BĐQ/BP. Thêm một đặc tính chiến thuật của BĐQ là
an ninh diện địa, nhận nhiệm vụ “mắt thần” trải dọc biên giới
Việt–Miên–Lào. Quân số của binh chủng lên đến 40 ngàn người trong
đó có 62 tiểu đoàn tác chiến. Cuối năm 1973, Liên đoàn có thêm
một pháo đội 105ly. Đến những ngày sau cùng của cuộc chiến, BĐQ
đã chính thức được tổ chức thành cấp sư đoàn. Sư đoàn 106 đầu
tiên do Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn chỉ huy.
Tuy là một binh chủng tân lập nhưng
phần lớn các cấp chỉ huy của BĐQ đã được bổ nhiệm từ những sĩ
quan ưu tú đầy kinh nghiệm chiến trường từ các quân binh chủng
nổi danh của QLVNCH. Do đó hiệu năng tác chiến của binh chủng BĐQ
đã gia tăng gấp bội. 15 năm trưởng thành trong khói lửa chiến
tranh, binh chủng đã lần lượt có các vị chỉ huy trưởng: Thiếu tá
Lữ Đình Sơn, Trung tướng Phan Trọng Chinh, Chuẩn tướng Phan Đình
Thứ (tự Lam Sơn), Thiếu tướng Tôn Thất Xứng, Thiếu tướng Phan
Xuân Nhuận, Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai,
Đại tá Trần Công Liễu, và sau cùng là Thiếu tướng Đỗ Kế Giai, vị
tướng lãnh cuối cùng đã định cư tại Hoa Kỳ sau 17 năm trong trại
tù cộng sản.
Chiến sĩ Mũ Nâu sau khi mãn khóa từ những quân trường bộ binh đều
phải trải qua một lần thử thách cuối cùng tại Lò Luyện Thép trước
khi ra đơn vị chính thức thi hành sứ mạng của người trai thời
loạn. Không một người lính Mũ Nâu nào là không biết đến danh từ:
RỪNG NÚI SÌNH LẦY tại trung tâm huấn luyện BĐQ Dục Mỹ (Nha
Trang). Nơi đã được tổ chức huấn luyện bằng sự phối hợp chương
trình và kỹ thuật huấn luyện của RNSL Mã Lai, Panama, và Fort
Benning của Hoa Kỳ. Nhưng tại RNSL Dục Mỹ, người khóa sinh BĐQ
phải chịu nhiều cam go, khó khăn, và thử thách hơn trong khi tập
luyện để khi xuất thân từ LÒ LUYỆN THÉP DỤC MỸ họ sẽ trở thành
những chiến sĩ MÌNH ĐỒNG DA SẮT CỦA QLVNCH, và sẵn sàng thích
nghi với mọi đòi hỏi của nhu cầu chiến trường. Mặc dù
TTHL/BĐQ/Dục Mỹ trên hình thức chỉ được xếp ngang hàng như các
TTHL cấp binh chủng, nhưng Dục Mỹ đã hãnh diện trước quân đội vì
đã nhận trách nhiệm huấn luyện cho nhiều quân nhân thuộc các quân
binh chủng bạn qua các khóa học bổ túc thích ứng với đòi hỏi của
nhu cầu chiến trường qua chỉ thị của Bộ Tổng Tham Mưu.
Từ Mậu Thân tang tóc (1968) đến mùa hè
đỏ lửa (1972), và những trận đánh cuối cùng. Binh chủng BĐQ luôn
luôn cùng các đơn vị bạn giáng cho bọn giặc Cộng những đòn sấm
sét và chí tử. Trong lúc Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang bận
đối phó với cộng phỉ qua những trận đánh long trời lở đất tại
vùng I và quân khu I, thì các chiến sĩ Mũ Nâu cũng đã bẻ gãy mọi
mưu toan tiến chiếm của Bắc quân xâm lăng cuồng tín tại các khu
chiến thuật và biên giới. Đặc biệt là tại thủ đô Sài Gòn, Chợ
Lớn, và Gia Định ba liên đoàn BĐQ (3, 5, và 6) đã đánh tan tành
không còn manh giáp bọn cộng nô cuồng tín trong hai đợt tổng công
kích: Tết Mậu Thân và tháng 5 năm 1968.
Thành tích của binh chủng đã không dừng
lại ở đây. Cuộc chiến vẫn tiếp tục diễn tiến trong chiều hướng
gia tăng của bắc quân. Năm 1972, những trận chiến oai hùng của
Mùa Hè Đỏ Lửa lại một lần nữa quân sử của QLVNCH được ghi thêm
thành tích của binh chủng BĐQ. An Lộc tử thủ, Bình Long anh dũng
đã là những địa danh quen thuộc của người dân miền Nam. Nơi trận
chiến đã diễn ra với những cường độ tàn bạo nhất của cuộc chiến
để sau đó trở thành mồ chôn tập thể của hàng ngàn con thiêu thân
cán binh Bắc Việt. Cũng trong thời gian này những người lính Mũ
Nâu của Quân Khu I đã “bị ném” vào mặt trận Hạ Lào Lam Sơn 719
năm 1971 trong cái bẫy của đồng minh, nhưng nhờ sự chiến đấu anh
dũng của những người lính Rừng Núi Sình Lầy nên BĐQ/Quân Khu I
vẫn chưa bị xoá tên. Cũng trong thời gian này Tống Lê Chân (tức
Sóc Con Trăng cũ) đã là mồ chôn tập thể hàng ngàn cán binh thiêu
thân của giặc cộng. Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Ngôn đã anh dũng tử
thủ hơn năm trời và là người trung tá trẻ tuổi nhất của QLVNCH
lúc vừa tròn 25 xuân xanh. Cuối cùng trước khi sự bức tử
30/4/1975 xảy ra; một lần nữa các chiến sĩ BĐQ lại được mang ra
sử dụng, lần này là Quân Khu II/BĐQ trong một cuộc di tản dã man
nhất của quân sử VNCH từ Pleiku về Phú Bổn, Nha Trang. Sau đó thì
lệnh buông súng của Dương Văn Minh đã đưa đến kết quả hàng ngàn
người lính Mũ Nâu nói riêng và QLVNCH nói chung đã ôm mối hận.
Không vinh quang nào mà không có gian
khổ, cho nên thành tích của binh chủng đã được tô đậm bằng mồ hôi
và xương máu của những chàng trai Việt oai hùng và anh dũng. Màu
Mũ Nâu tượng trưng cho lời nói quyết tử của người chiến sĩ BĐQ.
Để đền bù lại, binh chủng đã nhận được 4 trong tổng số 7 huy
chương cao quý nhất của Quân Lực Hoa Kỳ là Presidential Unit
Citation. TĐ52 mệnh danh là Sấm Sét Miền Đông là tiểu đoàn đầu
tiên được nhận lãnh huy chương danh dự đó và TĐ44 Hùm Xám Miền
Tây được một huy chương. Riêng TĐ42 nổi tiếng với danh hiệu Cọp
Ba Đầu Rằn được tuyên dương hai lần.
Một vài mốc thời gian đáng nhớ.
– Ngày 1/7/1960, Binh chủng Biệt Động
Quân chính thức được thành lập. Các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, và
Binh Sĩ ưu tú được đưa từ các Sư Đoàn Bộ Binh, các Binh Chủng
thiện chiến về làm nòng cốt cho các Đại Đội BĐQ tân lập.
– Khởi thủy có 65 đại đội BĐQ được
thành lập. Năm 1961, đã có 81 đại đội BĐQ hành quân biệt lập.
– Năm 1962, các Tiểu Đoàn BĐQ được
thành lập.
–
Năm 1966, các Liên Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 BĐQ được thành lập.
– Năm 1968, Liên Đoàn 6 BĐQ được thành
lập.
– Năm
1970, Binh chủng BĐQ được chia thành các Liên đoàn BĐQ tiếp ứng,
các liên doàn 1, 2, 3, 4, 5, 6, và các tiểu đoàn BĐQ Biên Phòng.
Tổng cộng 51 tiểu đoàn BĐQ.
– Năm 1973, Liên Đoàn 7 BĐQ được thành
lập.
– Năm
1973, một lần nữa, lại cải tổ thành các Liên đoàn trừ bị:
Vùng 1: các Liên Đoàn 11, 12, 14, 15.
Vùng 2: các Liên Đoàn 21, 22, 23, 24,
25.
Vùng 3:
các Liên Đoàn 31, 32, 33.
Và các Liên Đoàn Tổng Trừ Bị: 4, 6, 7,
8 (thành lập cuối năm 1974), 9 (thành lập tháng 3 năm 1975).
– Năm 1975, Binh chủng thành lập 2 Sư
Đoàn BĐQ 101 và 106.
Lê Bình
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nguyễn vân tùng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, December 26,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang