Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
Ghi
Chủ đề:
50 năm – QH30T4Đ
Tác giả:
Minh Triệu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mặt Trận Tây Nguyên
Năm nay mùa mưa đến muộn trên vùng Cao
Nguyên. Như mọi năm vào cuối tháng Tư sang đầu tháng Năm, những
trận mưa dữ dội lúc nào cũng như đe dọa bầu trời Tây Nguyên nhất
là vùng Biên giới Miên–Việt và Lào–Việt.
Nhưng năm nay, sang đầu tháng Sáu bầu
trời Cao Nguyên hãy còn sáng và cao. Từ trên phi cơ nhìn xuống
những rừng cây trên dãy Trường Sơn, đồi núi và thung lũng bao
quanh Căn cứ 92 bát ngát một màu xanh rực rỡ cho ta cảm tưởng như
đang bay trong vùng trời Xuân.
Tôi giữ mãi cảm giác thoải mái, dịu
dàng khi bước chân xuống Phi trường Cù Hanh. Giữa khung trời xanh
êm thoảng gợn những đợt mây hồng, từng làn gió nhẹ không vẩn một
chút bụi vuốt ve rặng dương liễu trồng hai bên đường đưa về Căn
cứ. Tôi ngắm nhìn đài Kiểm soát, ụ chứa phi cơ, những kho hàng,
những cơ sở mới mọc lên trong thời gian rời xa Căn cứ này. Năm
năm thoáng qua mau, khuôn mặt của Căn cứ 92 đã đổi mới một cách
không ngờ. Bây giờ tôi trở lại vùng trời này, bước đi trên khoảng
đường tráng nhựa mà năm năm trước đây cỏ mọc và hoang vắng,
khoảng đường mà bây giờ có những rặng dương xanh, có những căn
nhà mọc lên như chào đón, như mời mọc như chứng tỏ sức sống mãnh
liệt tiềm tàng trong con người lính KQ
[Không Quân] đang sống
trên vùng Cao Nguyên.
Tôi cố tìm lại những khuôn mặt quen
thuộc năm năm về trước. Những khuôn mặt của những người bạn đã
cùng tôi lang bạt về miền Căn cứ này, để nhớ lại những đêm rét
buốt say sưa chếnh choáng, rã rời. Những mẩu tâm sự uất nghẹn
của những tên tốt đen bị đổi lên vùng đất đỏ này. Nhưng, những
khuôn mặt đó không còn nữa. Họ có thể bây giờ đã rất giàu sang ở
Sài Gòn. Họ cũng có thể đang lận đận ở một Căn cứ nào đó. Dầu sao
thì dấu chân của họ vẫn còn ở đây. Bàn tay, và cả ưu phiền của họ
nhỏ xuống trong thời kỳ Căn cứ 92 còn hoang dã, chưa mang vẻ ngăn
nắp, tiện nghi, và duyên dáng như bây giờ.
Cái vẻ mặt bề ngoài bình thản dửng dưng
và chậm rãi của Căn cứ 92 gây cho tôi một ấn tượng lạc lõng của
một người khách phương xa vừa ghé qua vùng đất mà như chưa hề
quen.
Nhưng sự
thật thì khác hẵn. Bên trong cái vỏ lạnh lùng bình yên và âm thầm
đó là những âm hưởng của những trận chiến sôi động đã và đang
diễn ra khắp vùng trời Tây Nguyên. Tôi có thể khơi dậy những hình
ảnh nóng bỏng đầy máu lửa đang diễn ra ở đây trong bất cứ một
người lính KQ nào tôi đã gặp.
Bạn muốn nghe về trận chiến mù trời,
khét lẹt mùi bom đạn và mùi da thịt người ở Dak Seang mới xảy ra
cách đây hơn một tháng? Dễ lắm. Bạn chỉ cần dừng ở lại Ban Tác
chiến của Biệt Đội. Ở đó, bạn gặp ngay những gương mặt Phi công
thật trẻ, dáng dấp như các cậu thư sinh mới vừa rời ghế nhà
trường. Nhưng chính họ lại là những Chiến sĩ gan dạ, những người
đi thử lửa hằng ngày trên trận chiến Dak Seang, trong Chiến dịch
Bình Tây I, Bình Tây II.
1. Những con Đại bàng trên vùng trời
Dak Seang.
Trong căn phòng nhỏ và thấp, Đại úy Lân, Biệt đội trưởng 3 Phi
Đội Phản Lực, Quan Sát, Trực Thăng của Không Đoàn 62 tăng cường
yểm trợ hành quân cho toàn vùng Tây Nguyên. Đại úy Lân trông còn
trẻ, trẻ đến độ bạn không ngờ rằng chính người đó đang nắm trong
tay cả một hỏa lực ghê gớm hàng ngày làm rung chuyển vùng trời
Biên giới Miên–Việt.
Đại úy Lân giới thiệu với tôi Đại úy Vũ
ngọc Liễu, một Phi công Phản lực A–37, người hùng của vùng trời
Dak Seang. Đại úy Liễu chỉ lên bản đồ nơi mà cách đây hơn một
tháng anh đã bay.
Dak Seang chính là cửa ngõ đi vào Tây
Nguyên. Vì nếu thọc sâu được vào vùng cực bắc Kontum là từ đó
địch có thể phóng tay đụng tới bất cứ vùng nào trên Cao Nguyên.
Và khi đã khống chế được, Cao Nguyên là cái yết hầu của miền Nam
đã bị đối phương nắm gọn. Địch đã chuẩn bị dòm ngó Dak Seang từ
sau chiến dịch Đông Xuân, địch tung vào trận đánh Trung đoàn 40
Pháo, Trung đoàn 28 chính quy, và một số đơn vị Đặc công. Địch
lợi dụng địa thế hiểm trở có nhiều triền núi để cùng một lúc thực
hiện hai mục tiêu: dùng Dak Seang như một diện để thu hút quân
Trừ bị của Quân đoàn 2 và khi đã hút được một số lớn quân lên Dak
Seang là Pleiku, Ban mê Thuột kể như trống trải. Trong trận đánh
này mưu đồ chính của địch là chiếm Pleiku nơi đặt bản doanh của
Quân đoàn 2 để gây tiếng vang bất ngờ, và mục tiêu thứ hai là
diệt Phi pháo.
Ngày 1/4/1970 là trận đánh mở màn, Dak
Seang bị bao vây hoàn toàn, về phía Bộ binh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn
2 tung vào trận đánh lực lượng của Biệt khu 24, Liên đoàn 2 BĐQ,
Trung đoàn 42 Biệt lập, và tăng cường hai đơn vị Pháo binh Hoa
Kỳ. Về phần Không Quân, một nửa lực lượng của Không Đoàn 62 được
dồn lên Pleiku và bao nỗ lực của Không Đoàn dồn hết cho Dak
Seang.
Đại úy
Liễu chậm rãi xác nhận. Địch quả thật dùng nhiều mánh lới. Ngay
những ngày đầu khi cuộc tấn công mở màn, thời tiết trên vùng hành
quân bất lợi cho Không Quân. Mây thấp, núi cao, Phi Tuần nếu bay
cao thì không thể oanh kích chính xác các mục tiêu. Nhưng trái
lại nếu bay thấp thì là mồi ngon cho hỏa lực Phòng không. Nhưng
Bộ Chỉ huy của địch đã ước tính sai lầm khi tinh thần chiến đấu
và lòng gan dạ của các Chiến sĩ Không Quân.
Trong một phi vụ đánh địch ở phía Bắc
Dak Seang 5 cs. Nơi có hai ngọn đồi. Địch tử thủ dưới hầm sâu,
quân bạn đã ba lần vượt qua một con suối để chiếm một ngọn đồi,
nhưng đều bị địch phản công đẩy lui. Phi Tuần của Đại úy Liễu
được gọi tới oanh tạc mục tiêu. Bầu trời hôm đó thật thấp, quân
bạn và địch lại quá gần, gần đến độ chỉ thả sai một giây là bom
có thể rơi ngay xuống quân mình... Địch để dành sẵn một Phi Tuần
của Đại úy liễu một lối vào, đó lại chính là tử lộ. Đại úy Liễu
chỉ có một lựa chọn mà sự lựa chọn đó địch đang dành sẵn cho
mình. Anh đưa Phi Tuần lên thật cao, rồi từ trong mây Phi Tuần
của anh đâm bổ xuống thật lẹ, thật thẳng vào đúng những họng súng
của địch. Anh đánh địch bằng sự liều lĩnh có tính toán của những
người phi công đầy gan dạ. Anh đã thành công. Những quả bom rời
cánh đều trúng địch. Những trái Rocket phóng đi đã dập tắt mọi
kháng cự của địch. Hơn một trăm địch bị tan xác trong cuộc oanh
kích này.
Người phi công Anh hùng thứ hai của trận Dak Seang là Đại úy Ngô
văn Trung, anh cũng thuộc Phi Đoàn 524, đồn trú tại Không Đoàn
62.
Anh Trung
vừa đi oanh kích giải vây một đồn 20 cs Đông bắc Pleiku trở về.
Từ trên phi cơ bước xuống, tay hãy còn xách nón bay, dáng người
anh dỏng cao, phong độ như một nghệ sĩ. Anh mỉm cười nhắc lại
trận chiến của một tháng cũ. Anh nói: Đối với các Hoa tiêu của
Phi Đoàn Phản lực 524 của Không Đoàn 62 thì Dak Seang là một trận
chiến thích thú nhất trong năm. Và cũng là một trận chiến nóng
bỏng đối với anh. Vì Phi Tuần anh là Phi Tuần đầu tiên bị nếm đạn
phòng không của địch, lại thêm thời tiết trên vùng lúc nào cũng
mây mù, phi cơ đủ loại của ta và Đồng minh đều có mặt trên đó.
Trong nhiều phi vụ các Khu trục cơ của
ta và Đồng minh tưởng chừng như đâm sầm vào nhau. Đang làm vòng
trên mây để chui xuống vừa thả xong trái bom, kéo phi cơ bay lên,
thì lù lù trước mặt một chiếc Khu trục khác lao ngay vào mũi phi
cơ mình. Nếu không lẹ mắt thì có thể không ăn đạn Phòng không
cũng đụng nhau trên trời. Anh Trung còn cho biết trong trận giải
vây Dak Seang những phi cơ trực thăng của Phi Đoàn 215 mới chính
là những người mệt nhất. Họ bay suốt ngày để chuyển quân vào các
địa điểm chung quanh Dak Seang. Nhiều phi vụ, mặc dù Khu trục của
Đồng minh và của Việt Nam bay trước giải bom chùm nổ cao chống
biển người để dọn bãi đáp. Nhưng khi trực thăng vừa sà xuống là
từ những công sự kiên cố dưới sâu địch nhảy cả lên xung phong.
Nhiều xạ thủ trực thăng đã phải dùng Tiểu liên M–16 và súng lục
quần thảo với những tên địch đang lao tới quá gần. Chẳng hạn như
trận đánh chiếm núi “Ếch”. Đợt đổ quân đầu cùa 20 trực thăng Mỹ
vừa tới là bị bắn dội ra không sao đáp được, trực thăng của Phi
Đoàn 215 xông tới. Họ dùng lối đáp tắt máy từ trên cao, để phi cơ
rơi thẳng xuống đầu địch. Địch hoảng quá chạy tán loạn. Sau khi
đổ quân xuống. Họ bay lên, đoàn phi cơ mười chiếc, thì chín chiếc
trúng đạn, nhưng không chiếc nào bị rớt. Người phi công nổi tiếng
mang nhiều vết đạn nhất, chính là Đại úy Giang văn Thành, Đại úy
Thành là người đầu tiên đáp xuống đồn Dak Seang sau mười lăm ngày
bị vây hãm. Phi cơ trực thăng của Đại úy Thành mang 39 vết đạn,
nhưng rất may trở về Căn cứ bình yên.
2. Những người làm việc âm thầm.
Đóng góp vào chiến công giải vây Dak
Seang, không phải chỉ có những Hoa tiêu Khu trục, Hoa tiêu Quan
sát của Không Đoàn 62 gởi tới mà một phần do mồ hôi và công lao
của những người lính Không Quân làm việc âm thầm tại Căn cứ 92.
Đầu tiên phải kể đến những Chiến sĩ thuộc Ban Vũ khí của Căn cứ
này.
Những Phi
công bay trên trận địa trở về đều xác nhận chưa có trận đánh nào
họ dùng nhiều Rocket bằng trận này. Vì địch dùng chiến thuật cận
chiến luôn bám sát quân ta để vô hiệu hỏa lực của phi pháo.
Khoảng cách giữa địch và ta quá gần, nên bom nổ không dùng được,
mà Vũ khí để đánh cận yểm tỏ ra hữu hiệu nhất là Hỏa tiễn. Một
ngày trung bình các phi xuất giải vây đồn Dak Seang, sử dụng tới
500 trái Hỏa tiễn. Hàng trăm thùng Rocket được các Chiến sĩ Vũ
khí hạ xuống, gỡ ra gài hột nổ rồi đưa lên mắc vào giàn phóng.
Phương tiện của Căn cứ lại nghèo nàn. Nhưng vì yêu cầu ác liệt
của Chiến dịch, nên các Chiến sĩ thuộc Ban Vũ khí 92 bắt buộc
phải khắc phục trở ngại này. Họ làm việc suốt ngày dưới ánh nắng,
hoặc mưa bay tầm tã để trang bị đầy đủ và nhanh chóng mỗi khi
phi cơ hạ cánh.
Người Chiến sĩ Ngành Vũ khí của Căn cứ
92 đã hy sinh trong Chiến dịch Dak Seang là Binh 2 Huỳnh văn
Ghềnh, anh là Chuyên viên Vũ khí nhưng vì Căn cứ thiếu tài xế sử
dụng xe nâng bom, nên anh tự lái xe này nâng bom mắc vào cánh phi
cơ cho kịp phi vụ. Chiếc xe của anh mất trớn lao xuống dốc rồi
lật ngược đè lên người anh. Anh Ghềnh còn độc thân, quê anh ở Nha
Trang, và đã phục vụ tại Căn cứ 92 được năm tháng thì Chiến dịch
Dak Seang mở màn.
Bên những người phục vụ trực tiếp cho
Chiến dịch như Phi công, Chuyên viên Vũ khí, nhiều ngành khác đã
âm thầm tham gia một cách tích cực.
Trong số đó ta phải nói đến Trung Tâm
Hành Quân Không Trợ 2, Đài Kiểm Báo 921, và Đài Dart, những bánh
xe trong guồng máy đã nghiền nát địch ở Dak Seang, rồi bây giờ là
Bình tây I và II, mặt trận kéo dài từ vùng Biên giới giáp ranh
tỉnh Quảng Đức lên tới Vùng 3 Biên giới Lào–Miên–Việt của tỉnh
Kontum thọc sâu vào đất Cam Bốt 30 cây số.
Từ một ngọn đồi phía Tây Phi trường Cù
Hanh, có những Chiến sĩ ngày đêm giam mình trong phòng tối đối
diện với những mặt gương dạ quang tròn, nhỏ với những chấm sáng
khi tỏ, khi mờ qua những hệ thống máy móc rắc rối, tinh vi. Họ có
bổn phận theo dõi, hướng dẫn mọi phi vụ bay trong không phận của
Vùng 2 Chiến thuật, từ vùng Duyên hải cho đến các vùng dọc theo
biên giới Cao Miên. Họ là những Chiến sĩ của Đài Kiểm Báo 921.
Tuy ngồi một chỗ, làm việc âm thầm trong phòng tối, nhưng mắt họ,
tai họ không ngừng theo dõi mọi đường bay, mọi hoạt động của các
phi cơ tham dự Chiến dịch.
Không phải khi bay lên là Phi công có
thể ào ào tới mục tiêu trút bom đạn thật chính xác xuống đầu
địch. Họ phải nhờ các Chiến sĩ của Đài Kiểm Báo, làm trung gian
nhận lệnh chuyển lên phi cơ rồi từ phi cơ chuyển đi các đơn vị
diện địa. Họ cũng là những người hướng dẫn phi cơ trong mọi
trường hợp như ở Dak Seang các phi cơ phần lớn là nhờ Đài Kiểm
báo 921 hướng dẫn. Vì vùng này mây thấp, sương mù, và nhiều ngọn
núi cao. Họ đã hướng dẫn phi cơ tới mục tiêu, cũng như khi rời
mục tiêu. Họ đưa phi cơ xuyên mây an toàn, qua vùng núi non ngày
cũng như đêm, nhất là các phi cơ thả bom sáng các đồn cô lập dọc
theo biên giới heo hút. Tuy họ không đối diện với kẻ thù ngoài
trận tuyến, nhưng họ nắm sinh mạng các phi công đối diện với
trách nhiệm nặng nề cực nhọc với những mòn mỏi tinh thần, thể xác
trong phòng tối ngày đêm với thứ ánh sáng vàng xanh, nhức mắt
nguy hại ấy.
Rồi đến Đài Dart
Một Đài mang tên thật lạ. Đó là chữ tắt
của Depleloyable Automatic Relay Terminal nói nôm theo tiếng Việt
là Đài Hàm Răng Sắt. Tại sao lại gọi là Là Hàm Răng Sắt? Nó là cơ
quan gì của Không Quân? Nó đã góp gì vào cuộc chiến ở vùng Tây
Nguyên hiện nay?
Đại úy Đỗ anh Hào, Trưởng Đài Dart cũng
như tôi đều kinh ngạc khi được biết tên nó một năm trước đây.
Đại úy Hào tâm sự rằng khi anh còn ở
Tân Sơn Nhất được lệnh phải lên đường nhận nhiệm vụ mới trong
vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Anh bắt đầu rét. Vì tưởng rằng
mình sẽ phải đi nhận một loại nhiệm vụ như những tên Gián điệp
trong Missson imposible hay mèng ra
[bất ngờ] cũng phải vào Đội
Air commando. Nhưng khi lên tới Pleiku, nhận nhiệm vụ Trưởng Đài
Dart anh mới vỡ lẽ đây là một loại chiến cụ mới đang được tung
vào chiến trường miền Nam Việt Nam.
Nhiệm vụ của Đài Dart là nghe ngóng mọi
động tĩnh của địch ở suốt vùng Biên giới và những nơi nghi có
hoạt động của địch quân.
Đài này có một hệ thống điện tử thật
bén nhạy và tinh vi. Đó là những máy dò điện tử đặt suốt vùng
biên giới mang hình thù những cái răng nanh dài và nhọn. Những
cái máy này có thể nghe tiếng động, bắt hơi nóng người, súc vật
và xe cộ.
Khi
nhận tín hiệu, chuyên viên của Đài có thể giải đoán ý định chuyển
quân của địch, quân số của địch, và mọi phương tiện di chuyển của
chúng.
Đài
Dart thính tai đến độ có thể nghe tiếng xe hơi của địch chạy ầm ì
trên đường mòn Hồ chí minh, hay cả tiếng xe đạp thồ đạp lóc cóc
trên đường đá sỏi... Đôi khi, máy còn ghi nhận cả tiếng lính VC
ca hát, hoặc nói chuyện với nhau trên đường chuyển quân, mặc dù
Đài Dart cách Biên giới hàng trăm cây số ngàn.
Đài Dart khi bắt được tin lập tức phân
loại và xác định vị trí của con mồi, nếu trong tầm hoạt động của
Pháo binh, thì lập tức chỉ năm phút sau hàng chục trái đạn đại
bác được gởi tới vùng. Nếu xa hơn, thì có những loại phi cơ Võ
trang thường trực bay tuần tiểu dọc Biên giới được gọi tới can
thiệp.
Trong
trận Dak Seang trước đó một tháng, Đài Dart đã bắt được nhiều ký
hiệu, cũng như tiếng động ghi nhận được do máy điện tử xác định
số lượng địch tập trung trong vùng.
Tôi rời Pleiku đi Nha Trang vào một
buổi sáng mây thấp, giữa lúc tiếng đại bác từ thành phố Pleiku
bắn đi yểm trợ cho những cuộc hành quân Bình tây I và II rồi III
đang tiếp diễn trên một hành lang dài hơn 300 cây số, dọc theo
biên giới Việt–Miên, kéo dài từ Quảng đức lên tới Kontum.
Một tháng trước khi đại quân của Vùng 2
chưa vượt biên giới thì Pleiku thường xuyên là mục tiêu pháo kích
của VC. Địch pháo kích liên miên, nhưng kể từ ngày 1/5/1970 đại
quân ta vượt biên giới mở các đợt tấn công sâu vào đất Cam Bốt,
tịch thu hàng trăm tấn Vũ khí và Đạn dược, Lương thực, phá hủy
nhiều trại dưỡng quân và Trung tâm Huấn luyện của địch thì thành
phố Pleiku yên tĩnh hoàn toàn.
Về cuộc sống của những người lính Mũ
Xanh ở thị trấn Pleiku bây giờ cũng như những người lính khác ở
Cao Nguyên chẳng có gì đáng khích lệ... Phòng Chiến Tranh Chính
Trị của Căn Cứ đang thực hiện kế hoạch trồng bắp, nuôi vịt, và
đào một cái hồ nuôi cá. Trong tương lai nếu chương trình thành
công, thì đời sống của Binh sĩ cũng bớt thiếu thốn đôi phần.
Ngoài ra, vì Quân số chưa đủ để lập một
Quầy hàng Quân Tiếp Vụ, anh em Quân nhân ở đây đều trông cậy vào
tài ngoại giao của Phòng Chiến Tranh Chính Trị.
Số hàng do C2, tức Bộ Chỉ Huy Lực lượng
Đặc biệt du di cho chẳng đáng là bao.
Mỗi tháng, một Quân nhân được mua vào
khoảng 6 gói thuốc và vài hộp sữa. Nhất là thuốc lá, đó là nhu
cầu thứ hai sau cơm. Ở vùng đất lạnh, túi tiền của lính lại
thường rỗng không, những bao thuốc Quân Tiếp Vụ quả thật là niềm
an ủi lớn đối với họ. Họ hút để khỏa lấp nỗi nhớ nhung gia đình,
để tìm một thú vui khi tâm hồn trống rỗng.
Hàng đêm, có một cái máy quay phim
35ly, và một số phim có giá trị là một phần thưởng quý báu đối
với họ. Sau những giờ phút làm việc mệt mỏi.
Khí hậu Pleiku dễ chịu. Nếu một Quân
nhân có gia đình đều được một căn nhà và một thửa vườn xinh xắn,
cộng thêm những biện pháp thực tế nâng đỡ đời sống vật chất. Căn
cứ 92 có đủ yếu tố để trở thành một Căn cứ lý tưởng của Không
Quân. Người lính Không Quân khi phải thuyên chuyển lên Pleiku sẽ
chẳng còn mặc cảm bị hất hủi hay lưu đày. Đó là những cảm nghĩ
chung của lính Tàu bay đang sống trên miền đất xa xôi và quạnh
hiu nhất của Không Quân chúng ta hiện nay.
Minh Triệu
Nguyệt San Lý Tưởng 1970
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nguyễn vân tùng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, December 26,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang