Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
lính biệt kích
Tác giả:
John L. Plaster
Người dịch:
Vũ Đình Hiếu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Theo
tài liệu “S O G” by John L. Plaster.
Mỗi căn cứ hành quân tiền phương (FOB)
SOG Đà Nẵng, Phú Bài, Kontum, Ban Mê Thuột có khoảng 12 toán biệt
kích của Hoa Kỳ do sĩ quan, hạ sĩ quan LLĐB/HK làm trưởng toán
(Không kể các toán Lôi Hổ do sĩ quan QLVNCH làm trưởng toán). Tuy
nhiên lúc nào cũng chỉ có 6 toán sẵn sàng hành quân, 6 toán còn
lại bị tổn thất, đợi bổ xung, huấn luyện.
Đầu năm 1968, toán biệt kích Maine trên
Kontum sắp hoàn thành nhiệm vụ luân phiên 6 tháng. Trưởng toán
Fred Zabitosky đã sẵn sàng cho chuyến đi cuối cùng của anh ta.
Toán phó Trung sĩ Doug Glover bị thương trong hai chuyến xâm nhập
trước đây. Zabitosky từng tham dự 2 chuyến Bright Light tìm một
trưởng toán bị địch bắt, tra tấn, và giết, và chuyến khác tìm
Charlie White rớt xuống từ dây cấp cứu McGuire bên Miên.
Lần này Zab sẽ xâm nhập mục tiêu “Bra”
khúc sông uốn quanh, nơi đường 110 tách ra khỏi đường 96 trên hệ
thống đường mòn Hồ Chí Minh đi về hướng đông. Trong mục tiêu Bra,
quân chính quy Bắc Việt xây binh trạm 37, một căn cứ lớn với
nhiều kho tiếp vận, đạn dược. Quân Bắc Việt dùng binh trạm này để
chuyển quân, đồ trang bị, tiếp liệu vào vùng cao nguyên Nam Việt
Nam và bắc Cambodia. Căn cứ này được bảo vệ bởi hoả lực phòng
không rất mạnh, một tiểu đoàn phòng vệ và một đơn vị chống biệt
kích. Mục tiêu Bra được coi như khu vực “nóng” nhất miền nam Lào,
khó khăn hơn những mục tiêu trước đây như Juliet, Hotel, India,
và November Nine.
“Khi danh sách các mục tiêu đưa ra”,
trưởng toán Lowell Stevens kể lại “Anh trở nên bí mật, im lặng,
anh không muốn Bra nổi tiếng, nhưng anh hy vọng và cầu nguyện
không phải nhận lãnh mục tiêu đó”. Một trưởng toán khác Lloyd
O’Daniels báo động “Bạn nên đem theo đầy đủ đạn dược, vì bạn sẽ
cần đến nó không lâu đâu”.
Hai tuần lễ sau khi trận Tổng Công Kích
1968 Mậu Thân bắt đầu, thành phố Huế vẫn còn trong tay địch quân,
căn cứ Khe Sanh bị bao vây. Toán biệt kích Maine xâm nhập mục
tiêu Juliet Nine (Bra) để dò thám quân Bắc Việt đang rút quân,
tăng cường thêm quân hay tiếp tế cho trận tấn công của họ trên
vùng cao nguyên. Doug Glover vừa mới ra khỏi bệnh viện, sẽ thay
Zabitosky làm trưởng toán, nên chuyến này để cho Glover làm
trưởng, Zabitosky làm phó. Toán Maine có thêm Trung sĩ Purcell
Bragg.
Không
toán biệt kích nào xâm nhập mục tiêu Bra mà không biết sợ. Toán
Maine được hai trực thăng Huey thả xuống, Glover quyền trưởng
toán dẫn toán ra khỏi bãi đáp đến một chỗ rậm rạp, anh ta không
biết đã đưa toán vào một hẻm núi. Hẻm núi này rộng khoảng 300
thước, toán biệt kích khám phá ra một dãy pháo đài của địch.
Zabitosky đang xem xét các pháo đài để định thời gian các pháo
đài được xây, một trung đội lính Bắc Việt chạy lại tấn công toán
biệt kích. Toán Maine vừa bắn trả vừa lùi ra.
“Ông chỉ huy!” Glover nói lớn cho
Zabitosky nghe, cùng lúc Bragg báo cáo, Covey, máy bay quan sát
điều không FAC cho biết có hai toán biệt kích đang chạm địch, và
toán Maine phải rán “gồng” một mình trong vòng 45 phút. Zab ra
lệnh cho Glover đưa toán trở lại bãi trực thăng lập vị trí phòng
thủ, còn anh ta sẽ ở lại cầm chân địch.
Ban tình báo đơn vị SOG sau này cho
biết hẻm núi đó là bộ chỉ huy cấp trung đoàn của địch, cũng có
thể là bộ chỉ huy binh trạm 37. Zab tiếp tục quăng lựu đạn, bắn
cầm chân địch quân chừng nửa giờ rồi chạy ra bãi trrực thăng. Tại
bãi đáp, Glover đã tổ chức xong vị trí phòng thủ và đang điều
động các phi tuần khu trục A–1 đánh bom yểm trợ cho toán biệt
kích. Trong lúc Zab còn trong hẻm núi, quân Bắc Việt đem tới đại
liên phòng không 12.7ly. Covey cho biết thêm, quan sát thấy bốn
đại đội của địch đang trên đường đến vị trí toán biệt kích và một
đại đội đã gần tới.
Trên vùng trách nhiệm chiếc máy bay
quan sát vẫn liên lạc với toán biệt kích ở dưới. Covey hỏi Zab.
– Anh có tất cả mọi người chưa?
– Đủ, có chuyện gì không?
– Cách anh chừng 400 thước về hướng tây
có chỗ an toàn hơn cho gia đình anh.
Điều rất nguy hiểm, đem trực thăng vào
bốc toán biệt kích trong khi bãi này có hỏa lực phòng không và
đông đảo địch quân. Trong khi các phi tuần khu trục, trực thăng
võ trang đánh xung quanh bãi đáp, Covey hướng dẫn toán Maine chạy
150 thước hướng đông nam dọc theo một dòng suối, qua một cánh
rừng đến một bãi đáp khác an toàn hơn.
Họ đến một khoảng đất trống trải, không
bị địch đuổi theo. Covey cho một trực thăng vào bốc toán Maine.
Mọi người đều nín thở, Purcell Bragg cùng hai biệt kích Thượng
chạy ra leo lên trực thăng, chiếc máy bay bốc lên cao, qua khỏi
ngọn cây. Thoát.
Toán biệt kích còn lại gồm Zab, Glover,
và 4 biệt kích Thượng đợi chiếc thứ hai. Hàng trăm địch quân bao
vây ba mặt bãi đáp, xung phong tấn công. Khu trục A–1, cùng trực
thăng võ trang đến bắn hỏa tiễn xung quanh bãi đáp cho chiếc trực
thăng thứ hai vào bốc biệt kích quân còn lại. Khi trực thăng đáp
xuống, toán biệt kích vừa chạy ra trực thăng vừa bắn xối xả. Quân
Bắc Việt cũng nhào ra sống chết không để toán biệt kích chạy
thoát. Khi chiếc trực thăng bốc lên cao khoảng 75 bộ, B–40 của
địch bắn trúng máy bay. Chiếc trực thăng rớt xuống, đứt làm đôi
bốc cháy.
Bị
thương, bị cháy xém quần áo, Zabitosky chạy lại chiếc trực thăng
đang bốc cháy, lôi ra được viên phi công cùng người phi công phụ.
Doug Glover, 4 biệt kích Thượng, 2 Trung sĩ xạ thủ đại liên
Melvin Dye, Robert Griffith đều chết. Trên một chiếc Huey khác
bay cao 3,000 bộ, y tá LLĐB Luke Nance nhìn xuống chiếc trực
thăng đang bốc cháy, la lên cho người phi công biết “Có người còn
sống ở dưới! Đáp xuống để tôi cứu họ!”. Hai viên phi công nghi
ngờ quân Bắc Việt đang lục soát xác chiếc trực thăng trả lời
“Mình nên ra khỏi chỗ này tốt hơn!”. Nance cương quyết “Không!
Mình không đi đâu hết! Phải xuống cứu mấy người ở dưới”. Cuối
cùng viên phi công phải bay xuống.
Mặc dầu đạn AK, 12.7ly bắn lên chiếc
trực thăng vẫn lao xuống, Nance thấy rõ Zabitosky ngã lên ngã
xuống, cố gắng lôi hai viên phi công về hướng có tiếng trực
thăng. Nance chạy lại giúp Zab lôi hai viên phi công lên máy bay,
anh ta không nhận ra Zab, mặt mày bị cháy đen xì. Tất cả đều
thoát, được trực thăng đưa về bệnh viện Hoa Kỳ trên Pleiku an
toàn. Tướng Westmoreland vào bệnh viện thăm, gắn chiến thương bội
tinh và đề nghi cho Zabitosky lãnh huy chương Danh Dự (Medal of
Honor). Bốn tháng sau, một toán biệt kích khác cũng từ Kontum
(FOB 2) do John Kedenburg làm trưởng toán xâm nhập đường 110 cách
mục tiêu Bra 12 dặm về hướng đông. Toán chạm súng với một toán
tuần tiễu của địch, sau đó quân Bắc Việt đem đến một tiểu đoàn
bao vây. Sáu tháng trước, Kedenburg đã chứng tỏ khả năng, can
đảm, đem về được xác Trung sĩ Nhất Dan Wagner trưởng toán Nevada
nên được giao cho trách nhiệm làm trưởng toán.
Toán Nevada, bị địch đuổi theo sát nút,
mỗi lần toán ngừng lại thở, quân Bắc Việt bắt kịp. Hai bên nổ
súng rồi toán biệt kích chạy tiếp. Cuối cùng Kedenburg nằm lại
cản cho toán viên chạy, rồi chạy sau. Sau khi bắt kịp toán, một
biệt kích Thượng chạy lạc, anh ta không thể hy sinh cả toán ở lại
chờ, và rất có thể người biệt kích Thượng đã bị địch bắt hoặc
chết. Kedenburg liên lạc yêu cầu bốc toán, họ nghĩ rằng đã cắt
đuôi được lính Bắc Việt.
Khi trực thăng tới thả dây xuống câu
lên được 4 biệt kích, Kedenburg điều khiển các khu trục cơ A–1
bắn chặn đường. Chiếc Huey thứ hai đến thả xuống 4 sợi dây cấp
cứu cho anh ta cùng 3 biệt kích quân còn lại. Lúc đó địch quân đã
băng qua màn lưới lửa do A–1 tạo nên, đồng thời người biệt kích
chạy lạc cũng xuất hiện do trông thấy trực thăng trên vùng. Thay
vì cho trực thăng bay đi, Kedenburg tháo dây McGuire ra nhường
cho người biệt kích Thượng, rồi ra dấu cho trực thăng bay lên,
còn một mình ở lại đối phó với địch quân.
Mọi người trên trực thăng chứng kiến
Kedenburg bắn chết 6 lính Bắc Việt trước khi gục ngã. Hôm sau
toán cấp cứu Bright Light vào đem về được xác John Kedenburg.
Chàng là người thứ hai trong đơn vị SOG được ân thưởng huy chương
Danh Dự.
Thêm
một người nữa nổi tiếng trên Kontum, bạn của cả hai Zabitosky và
Kedenburg, một huyền thoại trong đơn vị SOG đó là Trung sĩ Nhất
Robert Howard. Bự con như người tiều phu, ông ta đến Kontum FOB 2
đầu năm 1967. Howard được đề nghị ân thưởng huy chương Danh Dự 3
lần trong vòng 13 tháng, và nhiều người nghĩ rằng, ông ta xứng
đáng được cả 3. Cho tới nay Howard là người lãnh nhiều huy chương
cao quý kể cả 8 Chiến Thương Bội Tinh. Một đêm Howard chạy tới
xe chở quân của địch trên đường 110, ném mìn Claymore vào xe
trước con mắt ngạc nhiên của địch quân rồi cho nổ tung quả mìn.
Được đề nghi huy chương Danh Dự lần đầu
vào tháng 11 năm 1967, khi toán biệt kích do Johnnie Gilreath làm
trưởng toán khám phá ra kho vũ khí, lương thực lớn của địch trong
vùng đông nam Lào. Trong khi Gilreath cùng với toán viên tiếp tục
theo dõi hoạt động của địch, đơn vị SOG chuẩn bị cho đại đội xung
kích Hatchet Force tấn công. Howard tình nguyện làm trưởng toán
hướng dẫn đại đội xung kích từ bãi đáp đến chỗ toán của Gilreath.
Sự bất ngờ không đến mãi, 3 chiếc trực
thăng đổ quân bị phòng không địch làm hư hại nặng, Howard vẫn dẫn
được đại đội Hatchet Force đến chỗ toán biệt kích. Trong khi đại
đội xung kích phá hủy kho vũ khí, lương thực của địch, Howard
dẫn toán đi quan sát xung quanh, bắn hạ thêm 4 địch quân, tiêu
hủy thêm mấy pháo đài ngụy trang của địch.
Sau trận tấn công, trùm đơn vị SOG đưa
Gilreath và Howard vào Sài Gòn thuyết trình về trận đánh cho
tướng Westmoreland. Gilreath được cho đi học lái máy bay do ước
muốn của anh ta. Howard trở lại Kontum với huy chương Ngoại Hạng
(Distinguish Services Cross).
Mục tiêu Bra nơi Zabitosky lãnh huy
chương Danh Dự vẫn là chỗ nguy hiểm nhất cho những toán biệt
kích. Toán California do Joe Walker làm trưởng toán phục kích đơn
vị chống biệt kích của địch thất bại vì khẩu CAR–15 của toán phó
gặp trở ngại tác xạ. Quân Bắc Việt bắn trả lại bằng B–40 làm tất
cả mọi người trong toán đều bị thương.
Toán California phải lẩn trốn qua đêm,
sáng hôm sau, một trung đội xung kích do Trung úy Daniel Swain
chỉ huy xuống bãi đáp để đón toán California. Joe Walker cùng 3
biệt kích Thượng tình nguyện ở lại giúp trung đội xung kích.
Trung đội này được lệnh di chuyển dọc theo đường 96 vào sâu mục
tiêu Bra tìm mục tiêu cho phi cơ oanh kích hoặc tấn công trên bộ.
Trung đội xung kích lục soát về hướng
bắc hai ngày không gặp một tên địch, không một phát súng bắn tỉa.
Walker cảm thấy không an tâm, càng lâu càng nguy hiểm, và không
nghi ngờ rằng địch sẽ đến. Đêm thứ hai, họ đóng quân, lập tuyến
phòng thủ giữa đường 96 và một nhánh sông rộng. Coi bộ chắc ăn vì
quân Bắc Việt không thể tấn công từ bên kia sông qua. Nhưng nếu
địch đánh từ đường vào, trung đội xung kích sẽ bị kẹt đằng sau là
sông, hết đường chạy.
Walker và 3 biệt kích Thượng, toán
California không đào hố chiến đấu, họ chui vào một bụi tre.
Khoảng 3:00g sáng, Walker thức giấc nhìn đồng hồ và nghe tiếng xe
vận tải. Chiếc đầu ngưng lại cách khoảng 200 thước, rồi chiếc thứ
hai, thứ ba... chàng chỉ còn nghe được tiếng mở bửng sau xe vận
tải Molotova do Nga Sô chế tạo trang bị cho quân đội Bắc Việt. Sĩ
quan địch dùng loa tập họp để tấn công. Trong những hố chiến đấu
gần đó, khẩu đại liên M–60 đã được ráp đạn. Lúc đó ánh sáng phát
ra từ những cây đèn pin của địch chiếu qua chiếu lại xuyên qua
màn đêm.
Khẩu
đại liên M–60 nhả đạn trước, tiếng nổ xé tan bầu im lặng, quân
Bắc Việt bắn trả đũa và pháo kích vào tuyến phòng thủ của đơn vị
xung kích SOG. Đạn và miểng ghim vào lưng, đùi Walker. Một góc
phòng tuyến bị vỡ, quân Bắc Việt tràn vào bên trong. Trung úy
Swain, Ranger Haynes bò qua chỗ Walker rồi một trái cối nổ đằng
sau hai người làm Swain bị thương nặng nơi chân. Mặc dầu bị
thương, Walker vẫn cố gắng bò ra chỗ khác, kéo theo Trung úy
Swain. Một hạ sĩ quan Mỹ đen đứng dậy hứng hai chục viên AK, anh
ta la lên rồi rớt xuống đất.
Walker tiếp tục bò về phiá bờ sông, lôi
theo Swain. Anh ta vẫn đem theo khẩu đại liên M–60, và tìm được
chỗ cạn vượt qua sông. Bên kia đã có mấy biệt kích Thượng bị
thương đang ẩn trốn. Nhìn qua bên kia sông, Walker thấy đèn pin
của quân Bắc Việt đi thanh toán chiến trường. Walker nhớ đến
Swain, vội bò trở lại kéo Trung úy Swain lên bờ lấy poncho cuốn
lại, anh ta không có thuốc men để chữa cho ông trung đội trưởng,
trung đội xung kích.
Trên Kontum, Đại úy Ronald Goulet đánh
thức Howard dậy “Mình phải đi cứu Walker và Swain”. Vài hạ sĩ
quan LLĐB/HK khác cũng tình nguyện đi theo. Toán cấp cứu Bright
Light 12 người do Goulet chỉ huy xâm nhập vào tìm kiếm quân nhân
Hoa Kỳ tử trận hoặc mất tích. Trong màn đêm toán Bright Light dò
dẫm tìm Walker và Swain, họ sờ từng xác chết một, xác nào chân
dài là của người Hoa Kỳ, cuối cùng họ tìm được Walker và Swain.
Chờ cho trời sáng, các phi tuần oanh
kích bao vùng, toán Bright Light qua trở lại bên kia sông tới chỗ
phòng thủ của trung đội xung kích, họ thâu hồi được xác người hạ
sĩ quan Mỹ đen và những quân nhân bị thương.
Giữa tháng 11, Howard tình nguyện trở
lại mục tiêu Bra cùng với một đại đội Hatchet Force, phá hoại,
tìm cách kéo quân đội Bắc Việt đang bao vây quân biệt kích Mèo do
CIA/CAS tài trợ sâu trong đất Lào. Đơn vị SOG hy vọng “vố” này sẽ
làm quân đội Bắc Việt phải đưa quân về giữ mục tiêu Bra. Đại đội
Hatchet Force do một đại úy chỉ huy, thêm Trung úy James
Jerson, mấy hạ sĩ quan trong đó có Lloyd O’Daniel trong trung đội
1.
Đơn vị này
cũng không chạm địch, không bị bắn tỉa trong vòng 4 ngày đầu lục
soát trong khu vực đường 96. Vùng này bị B–52 trải thảm bom nhiều
lần tan hoang, cây cối đổ nát, trước đây rừng rất rậm rạp. Quân
Bắc Việt tiếp tục lui tránh đụng độ như trung đội của Trung úy
Swain trước đây. Đến đêm 16 tháng 11, khoảng 100 địch quân tấn
công vào tuyến phòng thủ đêm đại đội Hatchet Force rồi lại rút
lui như đám quân ma. Ngày 18 họ bị phục kích nhỏ, địch quân lại
biến mất. Quân Mũ Xanh Hoa Kỳ đoán được ý định của địch. Ngày mai
mới đúng là “ngày”.
Sáng hôm 19, Howard thấy một thiếu úy
trẻ đi đầu thay vì một lính Thượng đầy kinh nghiệm. Rồi người sĩ
quan trẻ tiếp tục dẫn đạo, và tìm thấy đường dây điện thoại. Dò
theo đường dây đến một bụi cây, viên sĩ quan khám phá ra đó là
một chòi quan sát, có một bát cơm vẫn còn nóng, anh ta biết ngay
quân Bắc Việt sắp tấn công. Viên thiếu úy tiếp tục dẫn đầu, đến
một khoảng trống, anh định dẫn đại đội băng qua, mấy người biệt
kích Thượng ngần ngừ đợi lệnh và Đại úy đại đội trưởng ra lệnh
“tiếp tục”. Howard chạy lên trước cản viên thiếu úy lại “Bên kia
cánh rừng có người, coi chừng địch!”, anh ta lắc đầu trả lời “Tôi
sẽ giết hết tụi nó. Hãy chờ xem!”.
Viên thiếu úy bắn phát đầu tiên trúng
một tên, rồi súng B–40, súng cối nổ vang dội lên đầu trung đội đi
trước. Một quả đạn cối 62ly nổ gần chỗ người sĩ quan, bay mất
bàn chân phải của anh ta, và gần đứt chân trái. Howard đang lo
băng bó cho viên thiếu úy thì một quả B–40 khác nổ gần bên,
miểng ghim vào lưng và chân anh ta. O’Daniel không ngờ, Howard
nổi điên đứng dậy chửi thề trong lúc súng nổ như mưa, kể cả đại
liên phòng không 12.7ly trên chiến xa lội nước PT–76. Howard định
dùng súng phóng hỏa tiễn M–72 tiêu diệt chiến xa của địch, một
trái B–40 khác nổ gần đó làm hư khẩu M–72, bị thương một sĩ quan
khác. Howard dìu viên sĩ quan quay về ban chỉ huy đại đội, dẫn
theo hai biệt kích Thượng bắn yểm trợ, còn chàng đem theo hai
khẩu M–72 lên bắn gục chiến xa Bắc Việt.
Trong khi đó đại đội xung kích Hatchet
Force phải lui về nơi có cây cối che chở lập tuyến phòng thủ.
Trực thăng tản thương được gọi đến, bị đạn phòng không bắn lên
trúng xạ thủ đại liên ngay đầu gối, anh ta thét lên đau đớn ở
dưới đất cũng nghe. Địch tiếp tục bắn vào máy bay, chiếc trực
thăng chao đi bốc cháy nơi địch quân bắt đầu tấn công trung đội
dẫn đầu. Mặc dầu đã bị thương hai lần, Howard chạy lại chiếc trực
thăng đang cháy, lôi ra một xạ thủ đại liên, người xạ thủ bên kia
đã chết. Viên phi công chính giúp người phi công phụ ra khỏi máy
bay, chạy về tuyến phòng thủ của đại đội xung kích.
Hôm sau các phi tuần lên yểm trợ cho
trực thăng vào tải thương, đem đại đội Hatchet Force về lại căn
cứ. Howard được đề nghị ân thưởng huy chương Danh Dự lần thứ hai
trong vòng một năm. Ba tuần sau, Howard lại tình nguyện đi theo
toán biệt kích vào mục tiêu Bra.
Toán biệt kích do Larry White làm
trưởng toán, Trung sĩ Robert Clough, một sĩ quan LLĐB Việt Nam,
và 6 biệt kích Thượng. Tại bãi đáp chính địch bắn lên, trực thăng
phải bay đến bãi đáp thứ hai cũng bị bắn, đến bãi đáp phụ súng
địch bắn lên rớt chiếc trực thăng. White trúng đạn rớt ra ngoài,
người xạ thủ đại liên trúng đạn gục bên cạnh khẩu M–60, viên sĩ
quan LLĐB/VN trúng đạn chết. Ai cũng ăn đạn ngoại trừ Howard và
Clough.
Điều
ngạc nhiên là chiếc trực thăng vẫn còn bay được, mọi người lại
chui vào chiếc trực thăng và bốc lên cao trước khi địch quân xông
ra bắn lên tới tấp. Ba tuần sau, Howard theo một chuyến hành quân
Bright Light qua Miên. Lần này chàng được huy chương Danh Dự thực
sự.
Ngày 17 tháng Ba năm 2000
John L. Plaster
Vũ Đình Hiếu dịch
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tony nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, December 28,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang