Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
cuộc sống thế trần
Tác giả:
Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Vài lời khai truyện
Trong suốt khoảng 20
năm qua, mỗi năm tôi đều tìm dịp về thăm Việt Nam. Đã đi gần như
khắp đất nước, thăm viếng các đền đài, di tích lịch sử cũng như
những thắng cảnh từ Bắc đến Nam. Tôi đã đến những nơi mà ngày
xưa, thời còn đi học chỉ tìm thấy trong sách báo, trong văn
chương bằng những tưởng tượng của mình. Tôi lên tận những bản
làng vùng cao nguyên, hoà nhập vào nếp sống của những cộng đồng
dân tộc thiểu số, hưởng thụ mùi vị của những món ăn đặc sản trong
âm thanh cồng chiêng độc đáo của họ.
Tuy đã về Việt Nam
nhiều lần, nhưng tôi vẫn còn nhiều cảm giác chờ mong, đầy thích
thú trong những chuyến đi. Tôi có cảm tưởng Việt Nam, nơi tôi
chẳng bao giờ quên được, tôi sẽ tìm về nếu sức khoẻ cho phép dù
chỉ là cuộc về thăm viếng, rong chơi. Tìm về để quên đi những tẻ
nhạt của những tháng năm cuối đời mình nơi viễn xứ. Để sống lại,
nhìn lại những dấu tích kỷ niệm xa xưa, nơi tôi đã sinh ra, lớn
lên với nhiều buồn vui lẫn lộn. Mỗi lần về quê hương với tôi là
một lần có được những cảm giác thích thú, níu kéo, tiếc rẻ khi
rời xa.
Đôi lần, trong những cuộc gặp gỡ với một vài người
bạn đồng hương, cùng lứa tuổi trên dưới 60. Họ đã rời xa Việt Nam
dưới một dạng thức nào đó trong khoảng vài ba năm trước hay sau
1975, phần đông họ cũng có cảm giác như tôi khi về thăm Việt Nam.
Họ tìm thấy cố hương nơi đã cất giấu quá nhiều kỷ niệm vui buồn
trong đời họ, vẫn có cái gì đó kêu gọi họ dù mù mờ trong ký ức.
Tình cảm của những lần về thăm đôi khi có khác nhau giữa người
này với người khác, nhưng vẫn có một điểm chung, đó là tìm được
niềm vui khi trở về nhìn lại nơi mình đã một thời gắn bó.
Riêng cá nhân tôi, ngoài việc thăm viếng gia đình các em và bố
tôi vẫn còn sinh sống trong nước. Tôi vẫn có những thích thú để
được nhìn, được thưởng thức tất cả những gì độc đáo của quê hương
mà ngày xưa vì chiến tranh, nghèo đói, tôi đã không có dịp thực
hiện. Dĩ nhiên trong những lần về thăm đó tôi cũng đã bao lần cúi
đầu buồn bã với những điều đáng trách, không vui. Nhưng bên cạnh
đó, chẳng hiếm những lần tôi đã ngẩn ngơ, vui mừng, mở lòng mình
đón nhận cái hạnh phúc tuyệt vời, khó tả. Đôi lần tôi đã chảy
nước mắt vì cảm động với những thân tình rất đơn sơ, mộc mạc của
những người xa lạ, chưa hề quen biết gặp trên đường phố. Tôi tự
hỏi, tôi có chủ quan quá đáng để nghĩ rằng, với gần 35 năm sống
và đi khắp thế giới, chỉ có ở Việt Nam, quê hương nơi tôi đã sinh
ra lớn lên trong kỷ niệm, tôi mới có thể tìm được cái tình cảm
thấm đậm ân tình như vậy hay không?
Viết ra đây vài sự
kiện để giải thích cho một góc cạnh nho nhỏ mà chính nó đã góp
phần níu kéo, hấp dụ tôi về thăm viếng Việt Nam hàng năm.
–LA.
Cũng như
mọi năm, Tháng Tư năm 2002, tôi lại về thăm Việt Nam. Đặc biệt
lần này, tôi tạt vào Nhật Bản để cùng đi với cô con gái út học ở
đó đang trong dịp nghỉ mùa xuân. Thời gian nghỉ của con gái quá
ngắn, không tiện cho việc đi chơi xa vì vậy bố con tôi chỉ loanh
quanh ở Sài Gòn. Thỉnh thoảng, vào những ngày nắng nhạt hay buổi
chiều khi cái nóng của Sài Gòn dịu xuống, tôi mới có dịp chở con
gái đi thăm viếng những người quen biết hay tạt vào những quán ăn
uống, cho con gái biết chút đỉnh về quê cha đất tổ.
Hôm đó, khi hoàng hôn đã làm nhẹ cái
nóng khô của Sài Gòn Tháng Tư dương lịch. Tôi và con gái đang
ngồi uống dừa lạnh dưới hàng hiên của một quán nước trên con
đường khá vắng xe, rợp bóng cây ở vùng quận 3. Một bà bán chè
khoảng tuổi trung niên, cùng với đứa con gái cỡ 12, 13 tuổi, đặt
gánh chè sát bên lề đường, ngay phía trước chiếc bàn mà bố con
chúng tôi đang ngồi.
Quai trước đỡ một cái thùng bằng nhôm
đựng nước rửa bát, phía trên thùng nước được biến chế thành cái
khay nhỏ. Trên đó đựng khoảng hơn chục cái bát ăn chè úp ngăn nắp
bên cạnh cái lon đựng muỗng và vài cái hộp thô thiển đựng gia vị,
cho món chè “đậu xanh bột báng”, đặc biệt của miền quê Nam Bộ.
Quai sau, một nồi chè khói bốc nghi ngút đặt trên một cái bếp
than mù mờ ánh lửa khi có làn gió nhẹ thổi qua. Hai chiếc quai
được nối chặt với nhau qua chiếc đòn gánh ở phía trên để giữ cân
bằng và cũng tiện cho việc di chuyển.
Hình như đã quá quen thuộc với công
việc buôn bán, đứa con gái giúp mẹ vài việc lặt vặt rồi cùng với
mẹ chia nhau đi vào các hàng quán chung quanh để mời gọi khách ăn
chè. Mỗi khi có người muốn ăn, họ lại ra gánh chè múc chè bưng
đến tận tay cho khách. Chúng tôi im lặng theo dõi những cử động
thuần nhuyễn của hai mẹ con với khá nhiều thích thú. Nhất là nhìn
thấy vẻ vội vàng, ánh mắt vui mừng lộ rõ trên khuôn mặt khá xinh,
ngây thơ của đứa con gái mỗi khi tìm được khách.
Đúng lúc đó, từ đằng xa một chiếc honda
với tiếng máy nổ chói tai, trên yên xe, hai thanh niên quần áo
xanh đỏ diêm dúa đang lượn vòng, đánh võng với tốc độ khá cao.
Tên ngồi đằng sau lấy chân đẩy chiếc càng chống xe, cọ sát trên
mặt đường tạo ra một làn lửa xanh uốn éo theo vòng lượn của xe.
Không biết vì trật tay lái hay vì tính
toán không chính xác, chiếc xe chạy sát đến gánh chè, vướng vào
chiếc quang trước kéo đổ thùng nước rửa cùng với đống bát ăn chè
bị bể vỡ rơi tung tóe ra mặt đường. Chiếc đòn gánh được cột chặt
vào chiếc quang phía sau bung lên kéo nồi chè và bếp than đổ
theo. Âm thanh xèo xèo của chè nóng khi chạm vào than đỏ hồng
trên mặt đường sinh ra làn khói trắng bốc lên tan biến vào không
gian. Mùi thoang thoảng khét của chè cháy đập vào khứu giác làm
chúng tôi cảm nhận được cái thơm ngon của món chè.
Hình như tiếng đổ vỡ của gánh chè và
tiếng trượt bánh xe trên mặt đường đã đánh động mẹ con người bán
chè. Từ một quán nước gần đó, cả hai hốt hoảng chạy ra, bà mẹ gào
lên:
– Trời
ơi! Đổ hết gánh chè của tao rồi! Chúng bây mau thường cho tao!...
Từ đằng xa, hai tên lái xe honda dừng
xe cùng quay lại nhìn, khuôn mặt dù có tí chút ngạc nhiên nhưng
hoàn toàn vô cảm với lời la hét của bà bán chè. Chúng quay sang
nói với nhau vài tiếng gì đó, rồi rồ ga vọt đi, để lại đằng sau
làn khói trắng cùng tiếng rú chói tai của máy nổ.
Bà bán chè vừa hét, vừa chạy theo chiếc
honda, nhưng chỉ được vài bước bà ta dừng lại vì biết rõ việc
chạy theo chiếc xe phạm tội chỉ là chuyện vô ích. Đứng lại, đưa
bàn tay đập vào đầu mình, khuôn mặt giận dữ nhìn theo hướng chiếc
xe của hai tên tội phạm đã biến mất từ lâu, với giọng chán nản ba
ta than thở:
–
Trời ơi, tao sống làm sao đây, vốn liếng để nuôi cả gia đình chỉ
có nồi chè mà chúng mày đã phá tan của tao rồi!...
Trong khi bà bán chè than van, khóc
lóc, người hiếu kỳ dần dần bu lại. Người này nói vài lời an ủi,
người kia quay ra chửi vài câu bâng quơ hai thằng du đãng. Vài
người khác, tích cực hơn quay ra giúp đứa con gái thu gom những
dụng cụ bát muỗng chưa bị vỡ... Qua những lời bàn tán của đám
đông cùng với lời than khóc từ bà bán chè, tôi hiểu khá rõ hoàn
cảnh đáng thương của họ.
Chồng bà ta làm nghề chạy xe ôm, khoảng
một năm về trước bị tai nạn giao thông tê liệt cả thân mình, hiện
nay sống tàn phế trong một căn chòi ở một ngõ hẻm không xa. Hàng
ngày bà ta vẫn trông nhờ vào gánh chè để kiếm tiền nuôi chồng tàn
tật và ba đứa con hãy còn bé. Đứa gái lớn nhất vừa lên lớp Bảy,
ban ngày đi học, chiều tối theo mẹ đi buôn bán. Họ kéo dài cuộc
sống thiếu thốn, khổ cực đó chỉ dựa vào một hy vọng duy nhất là
mong chờ ba đứa con lớn khôn, đi làm kiếm tiền giúp đỡ mẹ cha để
đời sống có chút đổi thay nhàn nhã hơn.
Đứa con gái vẫn im lặng cúi đầu, giúp
mẹ thu gom vài chiếc bát còn lành lặn, xếp vào chiếc nồi nhôm
đựng chè đã rỗng không. Người mẹ thu gom vật dụng nhưng vẫn không
dừng thút thít khóc than. Nhìn cặp mắt ngơ ngác, đau khổ trên
khuôn mặt xám đen vì cháy nắng có vài sợi tóc thấm nước mắt và
đất cát vắt ngang trên mặt của bà mẹ, tôi cảm thấy lòng mình
chùng xuống vì thương hại.
Đám đông hiếu kỳ thưa thớt dần, con
đường lại trở về với vẻ bình thường như chẳng có gì xảy ra. Sau
một lúc suy nghĩ, tôi đứng dậy trả tiền nước uống, dẫn chiếc xe
gắn máy xuống đường rồi quay sang nói với con gái tôi:
– Con giữ xe cho bố một tí.
Chẳng đợi câu trả lời của con, tôi im
lặng đến bên bà bán chè, ghé sát tai hỏi nhỏ:
– Gánh chè của chị giá bao nhiêu vậy?
Có lẽ bà bán chè tưởng rằng câu hỏi của
tôi cũng như của những người khác, chỉ tò mò để mở đầu cho vài
câu an ủi hay chia buồn cho nỗi bất hạnh của bà ta mà thôi. Bà
bán chè ngước nhanh lên nhìn tôi không có tí gì tỏ ra chú ý, rồi
lại cúi xuống sửa lại đội quang gánh, giọng buồn chán, bà trả
lời:
– Cả vốn
lẫn lời, nếu gặp ngày may mắn bán hết cũng chẳng hơn được 80 ngàn
đồng. Trừ tiền vốn thì cũng kiếm được khoảng 40 đến 50 ngàn đồng
là nhiều. Nhưng bây giờ tất cả đã mất rồi, biết lấy gì mà nuôi
chồng con? Trời ơi! Sao tôi khổ quá thế này?
Tôi im lặng móc túi lấy ra 2 tờ giấy 50
ngàn đồng, gấp nhỏ nhét vào bàn tay của bà ta, chẳng cần chú ý
đến nét mặt ngỡ ngàng, không hiểu của bà ta. Tôi nói rất gọn:
– Thôi chị đừng khóc nữa, tôi trả tiền
cho gánh chè. Coi như hôm nay chị bán hết.
Bà bán chè lúc này mới thực sự hiểu rõ.
Quay lại nhìn tôi, đôi mắt giương to, vành môi hơi mở rộng, thể
hiện sự kích xúc tột cùng đang có trong lòng bà ta. Mặc dầu tôi
đã phải ấn hai tờ giấy bạc thêm một lần nữa vào bàn tay bà ta,
nhưng hình như bà ta vẫn chưa tự tin hoàn toàn để cầm lấy nó. Mãi
một lúc sau, khi đã có phần nào bình thản, bà ta đưa mắt nhìn rõ
2 tờ giấy bạc trong bàn tay của mình, ra vẻ suy nghĩ tí chút. Nét
buồn chán trong ánh mắt đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là vẻ
mừng rỡ. Bà ta cầm lấy một tờ 50 ngàn đồng, đưa về phía tôi:
– Chú Hai, trời ơi! Chú tốt quá, tôi
chỉ dám xin chú 50 ngàn thôi. Quá đủ cho tôi có vốn buôn bán ngày
mai rồi, còn lại xin trả chú.
Hành động của bà ta làm cho tôi khá
ngạc nhiên vì không thể ngờ được một người đang rơi vào hoàn cảnh
khó khăn mà lại từ chối món tiền rất cần thiết cho cuộc sống của
họ như bà ta. Tuy nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn đẩy nhẹ cánh tay bà ta
và nói:
– Chị
cứ cầm lấy tất cả đi. Chị quên, không tính đến việc mua bát đũa,
dụng cụ hư hỏng nữa hay sao?
Bà bán chè vẫn nằng nặc nhét tờ giấy
bạc vào tay tôi:
– Mấy cái chén cũ đó mua rẻ rề, chẳng
đáng bao nhiêu đâu. Chú giúp tôi thế này là quá đủ và quá tốt với
tôi rồi. Nhất định, tôi không dám lợi dụng quá mức, lấy của chú
100 ngàn đâu.
Hành động đẩy qua, đưa lại giữa tôi và bà bán chè đã làm vài
người hiếu kỳ xì xồ, bàn tán... Tôi đã cảm thấy có chút khó chịu
với ánh mắt tò mò của những người đứng xem và với thái độ quá lạ
kỳ của bà ta. Nửa ra vẻ đùa giỡn, nửa ra vẻ nghiêm nghị, tôi cầm
lấy cả 2 tờ giấy bạc làm như muốn bỏ trở lại vào túi mình, nhìn
thẳng vào mặt bà ta tôi nói rõ từng chữ:
– Chị không muốn lấy thì thôi, tôi
chẳng còn thì giờ đứng đây lằng nhằng với chị nữa. Bây giờ chị
lấy cả 2 tờ hay không lấy tờ nào, đơn giản có thế mà thôi.
Nói xong, tôi làm ra vẻ muốn quay bước
đi. Đến lúc đó, bà ta mới đưa tay cầm vội lấy cả hai tờ giấy bạc.
Với vẻ cảm động và sung sướng hiện rõ trên khuôn mặt, nhìn tôi
lắp bắp lời cám ơn:
– Chú Hai, vậy tôi xin chú. Chú tốt với
tôi quá, tôi chẳng biết lấy gì để đền đáp ơn huệ của chú.
Tôi nói với bà ta vài câu an ủi vu vơ
rồi quay bước về phía đứa con của tôi. Nó đang đứng giữ chiếc xe,
đưa mắt ngẩn ngơ theo dõi diễn tiến. Tôi mỉm cười đi về phía con,
tôi cũng không nhìn lại, nhưng biết chắc chắn đằng sau mình có ít
nhất hai khuôn mặt vui mừng của mẹ con bà bán chè đang ngơ ngác
nhìn theo.
Lúc
tôi sửa soạn rồ máy xe, đứa con gái của bà bán chè, vội vàng chạy
đến bên cạnh cúi đầu rất kính cẩn, với vẻ e dè nhưng đầy cảm
động, nói với tôi:
– Chú Hai, con cám ơn chú đã giúp đỡ
gia đình con.
Tôi nhìn nó mỉm cười, đưa bàn tay vuốt mái tóc ngắn cũn cỡn của
nó, rồi vỗ nhè nhẹ vài cái vào vai của nó, với vẻ quý mến, tôi
nói:
– Không
có chi để cháu phải cám ơn chú. Cháu cố gắng học hành và thương
yêu, giúp đỡ cha mẹ cháu là chú vui rồi.
– Dạ, cháu sẽ nghe lời chú Hai.
Trước khi rồ máy xe, tôi còn thấy nó
đưa tay nắm nhẹ lấy cánh tay con gái tôi và nói:
– Em cám ơn chị.
Trên đường về, bố con chúng tôi im
lặng, không nói với nhau một lời nào. Nhưng tôi biết chắc cô con
gái của mình vẫn chưa thoát được những suy tư về những diễn tiến
vừa xảy ra... Tôi cũng biết con tôi không đủ khả năng ngôn ngữ
để hiểu được trọn vẹn cái sâu sắc của sự việc, nhưng tôi nghĩ
rằng nó dư đủ thông minh để nhìn thấy niềm vui đang hiện hữu
trong lòng tôi và nó. Dĩ nhiên niềm vui đó chắc chắn còn lớn hơn
đang có trong lòng của cả hai mẹ con bà bán chè rong nghèo khổ.
Riêng tôi, tôi tự hỏi với món tiền quá
bé nhỏ, chỉ hơn 6 đô–la, chưa đủ trả cho một ly kem tráng miệng
trong bữa cơm trưa của tôi hàng ngày ở Thụy Sĩ. Với món tiền quá
ít ỏi như vậy mà tôi đã mua được một niềm vui rất lớn cho bố con
chúng tôi và mẹ con bà bán chè bất hạnh.
Giá trị của 6 đô–la đã được gia tăng
rất nhiều, ra ngoài sự tính toán và không ngờ được của tôi và có
lẽ của con gái tôi nữa. Nhờ món quà nhỏ bé đó tôi đã tái tạo được
số vốn mưu sinh của một người đàn bà nghèo khổ, xóa bỏ được bóng
ma bi đát của một gia đình bất hạnh, trong đó có người cha tàn
tật và ba đứa con đang tuổi ấu thơ. Đó không phải là một cuộc
trao đổi rất khôn ngoan, một niềm vui to lớn mà tôi đã có được
trong lần về thăm đất nước này hay sao?
Ngồi trên chiếc xe gắn máy lăn chậm
chạp trên con đường nhựa bằng phẳng. Hưởng thụ những làn gió mát
buổi hoàng hôn của một ngày trời Sài Gòn nhạt nắng. Tôi miên man
nhớ lại với hơn 30 năm sống và làm việc ở hải ngoại. Tôi đã đi
công tác ở biết bao nhiêu quốc gia nghèo khổ trên thế giới, Ấn
Độ, Pakistan, Trung Quốc, Đông Nam Á, và khá nhiều đất nước khác
ở Phi châu. Bao nhiêu lần, tôi đã từng xúc động cảm thương với
những hoàn cảnh khó khăn, nghèo túng của những người dân bất hạnh
nơi đó. Tôi đã từng giúp đỡ, cho tặng vật chất, tiền bạc những
người thiếu ăn, hoạn nạn, khốn cùng. Tôi đã nhìn thấy những nét
mặt, ánh mắt biết ơn, nghe những câu nói cảm ơn chân tình của
họ... nhưng có lẽ chưa bao giờ tôi gặp được một người nghèo đói,
có hoàn cảnh khó khăn, đang phải đối đầu với một viễn tượng tối
đen như mẹ con bà bán chè, lại từ chối không nhận món quà mà họ
đang cầu mong khi tôi đem đến giúp đỡ họ.
Tôi nghĩ rằng, có lẽ đây là một góc
cạnh rất đẹp dù nó khá buồn của hàng trăm góc cạnh khác, tiềm ẩn
trong xã hội Việt Nam mà tôi đã đôi lần nhận biết. Theo tôi chỉ
có những ai biết mở rộng tấm lòng, biết hoà nhập vào cuộc sống
của quê nhà, biết hưởng thụ cái giá trị tuy đơn sơ nhưng rất chân
tình của người dân Việt. Nhất là từ những người nghèo khổ nhưng
họ vẫn còn xa lạ với mánh mung, lừa đảo luôn luôn hiện hữu ở
những thành phố lớn đầy rẫy những tật ách. Những người này chỉ
biết mang lao lực ra kiếm sống. Tôi chắc chắn nếu chúng ta nhờ
một trạng huống nào đó để giúp đỡ họ, chúng ta sẽ thu nhận được
những nụ cười, niềm vui đôi khi làm cho chúng ta chảy nước mắt vì
cảm động.
Với
cá nhân tôi, chính những góc cạnh đẹp đẽ đó đã nối kéo, hấp dụ
tôi tìm về thăm viếng Việt Nam hàng năm. Cũng chính nó đã gây cho
tôi những cảm giác phập phồng đợi chờ mỗi khi sắp sửa về thăm
nhưng lại buồn thương, nuối tiếc lúc gần phải tạm biệt, rời xa.
Viết từ Thụy Sĩ
Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn
nguồn:
blog người phương nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by kb chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, January 4, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang